1900 0000
info@luatvietan.com

Các trường hợp đình chỉ giải quyết tranh chấp bằng trọng tài

Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài là một sự lựa chọn đang dần trở nên phổ biến hiện nay. Dẫu vậy, không phải trường hợp nào cũng được giải quyết tranh chấp bằng trọng tài và bị đình chỉ giải quyết. Để cung cấp thêm thông tin cho quý khách về các trường hợp có thể bị đình chỉ giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, công ty Luật Việt An sẽ đưa ra bài viết dưới đây.

Cơ sở pháp lý

  • Luật Trọng tài thương mại 2010;
  • Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về Hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật Trọng tài thương mại.

Các trường hợp đình chỉ giải quyết tranh chấp bằng trọng tài

Theo quy định tại Điều 59 Luật Trọng tài thương mại 2010 về đình chỉ giải quyết tranh chấp, các trường hợp mà vụ tranh chấp được đình chỉ giải quyết tranh chấp bằng trọng tài là các trường hợp sau:

  • Nguyên đơn hoặc bị đơn là cá nhân đã chết và quyền cũng như nghĩa vụ của họ không được ai thừa kế. Bởi khi một cá nhân chết, thỏa thuận trọng tài vẫn được tiếp tục có hiệu lực với người thừa kế của cá nhân đó, nhưng nếu không có người thừa kế thì thỏa thuận trọng tài sẽ mất hiệu lực.
  • Nguyên đơn hoặc bị đơn là cơ quan, tổ chức đã chấm dứt hoạt động, phá sản hoặc các hình thức thay đổi khác của cơ quan, tổ chức như giải thể, hợp nhất,… và không có cơ quan, tổ chức nào khác tiếp nhận quyền và nghĩa vụ của cơ quan tổ chức này.
  • Nguyên đơn rút đơn khởi kiện của mình hoặc được coi là đã rút đơn khởi kiện do dù đã được triệu tập hợp lệ tham gia phiên họp giải quyết tranh chấp mà vắng mặt mà không có lý do chính đáng hoặc tự ý rời phiên hợp khi không được Hội đồng trọng tài chấp thuận, và bị đơn cũng không yêu cầu Hội đồng trọng tài tiếp tục giải quyết tranh chấp.
  • Các bên tranh chấp dựa trên ý chí của mình thỏa thuận với nhau về việc chấm dứt giải quyết tranh chấp.
  • Tòa án đã ra quyết định rằng vụ tranh chấp không thuộc vào thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Hội đồng trọng tài do không có thỏa thuận trọng tài, thỏa thuận trọng tài vô hiệu hoặc xác định được rằng thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được.

Nguyên đơn hoặc bị đơn là cá nhân đã chết và quyền cũng như nghĩa vụ của họ không được ai thừa kế

Trong trường hợp này, phải đáp ứng hai điều kiện thì vụ tranh chấp mới được đình chỉ giải quyết tranh chấp. Đó là:

  • Nguyên đơn hoặc bị đơn là cá nhân đã chết;
  • Không có người thừa kế quyền và nghĩa vụ của nguyên đơn hoặc bị đơn đã chết.

Lý do trường hợp này thuộc vào các trường hợp mà vụ tranh chấp được đình chỉ giải quyết tranh chấp bằng trọng tài là bởi điều kiện để được giải quyết tranh chấp bằng trọng tài là:

  • Một bên tham gia thỏa thuận trọng tài là cá nhân chết hoặc mất năng lực hành vi;
  • Người thừa kế hoặc người đại diện theo pháp luật của người đó tiếp tục nằm trong phạm vi có hiệu lực của thỏa thuận trọng tài (Khoản 2 Điều 5 Luật Trọng tài thương mại 2010).

Do đó, ở tình huống này, dù đã đáp ứng điều kiện thứ nhất là một bên tham gia thỏa thuận trọng tài là cá nhân chết, tuy nhiên lại không đáp ứng được điều kiện là có người thừa kế để tiếp tục hiệu lực của thỏa thuận trọng tài. Dẫn tới việc thỏa thuận trọng trọng tài không có hiệu lực và trọng tài phải đình chỉ giải quyết trong trường hợp này.

Nguyên đơn hoặc bị đơn là cơ quan, tổ chức đã chấm dứt hoạt động, phá sản và không có cơ quan, tổ chức nào khác tiếp nhận quyền và nghĩa vụ

Để được đình chỉ giải quyết vụ tranh chấp bằng trọng tài trong trường hợp này cần đáp ứng được các điều kiện sau:

  • Nguyên đơn hoặc bị đơn là cơ quan, tổ chức đã chấm dứt hoạt động, phá sản hoặc các hình thức thay đổi khác của cơ quan, tổ chức như giải thể, hợp nhất. Tức là, cơ quan, tổ chức có sự thay đổi về hình thức, cơ cấu tổ chức.
  • Không có cơ quan, tổ chức nào khác tiếp nhận quyền và nghĩa vụ của cơ quan tổ chức trên.

Giải thích lý do tại sao trường hợp này lại có thể bị đình chỉ giải quyết tranh chấp trọng tài là bởi, theo quy định tại Khoản 3 Điều 5 Luật Trọng tài thương mại 2010, điều kiện để được giải quyết tranh chấp bằng trọng tài đó là:

  • Một bên tham gia thỏa thuận trọng tài là tổ chức chấm dứt hoạt động, phá sản, giải thể, hợp nhất, sáp nhập, chia, tách hoặc chuyển đổi hình thức tổ chức;
  • Tổ chức tiếp nhận quyền và nghĩa vụ của tổ chức trên tiếp tục hiệu lực của thỏa thuận trọng tài.

Do vậy, tuy đã đáp ứng điều kiện thức nhất là nguyên đơn hoặc bị đơn có sự thay đổi về hình thức của mình, nhưng lại không đáp ứng được điều kiện thứ hai là phải có tổ chức tiếp nhận quyền cũng như nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức trên. Từ đó, thỏa thuận trọng tài sẽ không còn hiệu lực và một khi thỏa thuận trọng tài không có hiệu lực thì Hội đồng trọng tài buộc phải đình chỉ giải quyết vụ tranh chấp.

Nguyên đơn rút đơn khởi kiện của mình hoặc được coi là đã rút đơn khởi và bị đơn không yêu cầu tiếp tục giải quyết tranh chấp

Có thể thấy, vụ tranh chấp được đình chỉ giải quyết tranh chấp bằng trọng tài trong trường hợp này khi đáp ứng được hai điều kiện. Cụ thể:

  • Nguyên đơn rút đơn khởi kiện của mình hoặc được coi là đã rút đơn khởi kiện. Các trường hợp mà nguyên đơn được coi là đã rút đơn khởi kiện được quy định tại Khoản 1 Điều 56 Luật Trọng tài thương mại 2010, đó là:
  • Nguyên đơn đã vắng mặt tại phiên họp giải quyết tranh chấp khi không có lý do chính đáng dù đã được triệu tập một cách hợp lệ;
  • Dù không nhận được sự chấp thuận của Hội đồng trọng tài, nguyên đơn vẫn rời khỏi phiên họp giải quyết tranh chấp.
  • Bị đơn không yêu cầu Hội đồng trọng tài tiếp tục giải quyết vụ tranh chấp.

Dù chỉ cần không đáp ứng một trong hai điều kiện này thì vụ tranh chấp sẽ không được Hội đồng trọng tài đình chỉ giải quyết. Chẳng hạn, nếu nguyên đơn đã rút đơn kiện nhưng bị đơn lại yêu cầu Hội đồng trọng tài vẫn tiếp tục giải quyết vụ tranh chấp này, thì theo quy định tại Khoản 1 Điều 56 Luật Trọng tài thương mại 2010, Hội đồng trọng tài sẽ giải quyết vụ tranh chấp theo yêu cầu của bị đơn.

Có thể đánh giá đây là quy định tôn trọng quyền quyết định và sự tự do ý chí của các bên tranh chấp và Hội đồng trọng tài tạo điều kiện để các bên có thể thuận lợi thực hiện quyền lợi của mình.

Các bên tranh chấp thỏa thuận về việc chấm dứt giải quyết tranh chấp

Đây là trường hợp đơn giản nhất để Hội đồng trọng tài có thể đình chỉ giải quyết tranh chấp, bởi chỉ cần đáp ứng một điều kiện duy nhất là có sự thỏa thuận của các bên về chấm dứt giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Sự thỏa thuận này của các bên phải dựa trên sự tự nguyện cũng như sự tự do ý chí của các chủ thể trong tranh chấp.

Quy định này cũng có nghĩa là các bên tranh chấp không thể đơn phương yêu cầu Hội đồng trọng tài chấm dứt việc giải quyết tranh chấp mà không có sự thỏa thuận với bên còn lại.

Lý do trường hợp này được đưa ra là bởi theo nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài quy định tại Khoản 1 Điều 4 Luật Trọng tài thương mại là trọng tài phải tôn trọng thỏa thuận của các bên khi thỏa thuận này không vi phạm bất kỳ điều cấm nào của luật, cũng như không trái với các quy tắc đạo đức xã hội. Quy định này được đưa ra là để nhằm thể hiện sự tôn trọng của Hội đồng trọng tài với thỏa thuận của các bên tranh chấp.

Tòa án đã ra quyết định rằng vụ tranh chấp không thuộc vào thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Hội đồng trọng tài

Các trường hợp không thuộc vào thẩm quyền giải quyết tranh chấp của hội đồng trọng tài bao gồm:

  • Không có thỏa thuận trọng tài: thỏa thuận trọng tài có thể được lập vào thời điểm trước hoặc sau khi tranh chấp xảy ra (Khoản 1 Điều 5 Luật Trọng tài thương mại 2010), tuy nhiên dù vào thời điểm nào thì các bên đều không lập ra thỏa thuận trọng tài. Mà việc không có thỏa thuận trọng tài thì sẽ không đáp ứng được điều kiện để có thể giải quyết tranh chấp bằng trọng tài;
  • Thỏa thuận trọng tài vô hiệu: đã được quy định tại Điều 18 Luật Trọng tài thương mại 2010 và Điều 3 Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về Hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật Trọng tài thương mại;
  • Thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được: các trường hợp mà thỏa thuận trọng tài được coi là không thể thực hiện được đã được quy định một cách chi tiết tại Điều 4 Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về Hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật Trọng tài thương mại.

Quý khách hàng có bất vướng mắc về các trường hợp đình chỉ giải quyết tranh chấp bằng trọng tài xin vui lòng liên hệ Công ty Luật Việt An để được chúng tôi hỗ trợ tốt nhất!

Tư vấn pháp luật doanh nghiệp
Tư vấn pháp luật doanh nghiệp
Tư vấn pháp luật sở hữu trí tuệ
Tư vấn pháp luật sở hữu trí tuệ
Tư vấn pháp luật đầu tư
Tư vấn pháp luật đầu tư
Tư vấn pháp luật dân sự
Tư vấn pháp luật dân sự
Tư vấn pháp luật lao động
Tư vấn pháp luật lao động
Tư vấn pháp luật tài chính/kế toán/thuế
Tư vấn pháp luật tài chính - kế toán – thuế
Tư vấn pháp luật hôn nhân và gia đình
Tư vấn pháp luật hôn nhân và gia đình
Tư vấn pháp luật hình sự
Tư vấn pháp luật hình sự
Tư vấn pháp luật đất đai
Tư vấn pháp luật đất đai
Tư vấn pháp luật hành chính
Tư vấn pháp luật hành chính
Trọng tài thương mại
Trọng tài thương mại
Giải quyết tranh chấp
Giải quyết tranh chấp

Bài viết liên quan

Văn bản pháp luật

Văn bản pháp luật

Hỏi đáp pháp luật

CÔNG TY LUẬT - ĐẠI DIỆN SỞ HỮU TRÍ TUỆ - ĐẠI LÝ THUẾ VIỆT AN

Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động số: 01010266/TP/ĐKHĐ, cấp lần đầu ngày 23/10/2007 tại Sở Tư pháp Thành phố Hà Nội.

Giấy đăng ký hoạt động của Chi nhánh Công ty Luật Việt An tại TP Hồ Chí Minh

Đại diện bởi: TS. LS Đỗ Thị Thu Hà (Giám đốc Công ty)

Mã số thuế: 0102392370

Văn phòng tại Hà Nội:

Tầng 3, Tòa nhà Hoàng Ngân Plaza, số 125 Hoàng Ngân, Phường Trung Hòa,
Quận Cầu Giấy, TP. Hà Nội

Điện thoại: (024) 66 64 06 06 - (024) 66 64 05 05

Phone: 09 33 11 33 66

Email: info@luatvietan.com

Văn phòng tại Hồ Chí Minh:

P. 04.68, Tầng 4, Sảnh A, Khu văn phòng: Tòa nhà RiverGate Residence, 151-155 Bến Vân Đồn, Phường 6, Quận 4, TP. Hồ Chí Minh

Điện thoại : (‭028) 36 36 29 65‬ - (028) 36 36 29 75‬

Phone: 09 61 67 55 66

Email : info@luatvietan.com